Thập niên 1930 Liên_đoàn_Tự_do_Dân_sự_Mỹ

Cuối những năm 1930 có sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới của sự khoan dung ở Hoa Kỳ.[44] Các nhà lãnh đạo quốc gia hoan nghênh Tuyên ngôn Nhân quyền, đặc biệt là khi nó bảo vệ thiểu số, như là bản chất của chế độ dân chủ.[44] Năm 1939 Tòa án tối cao ra quyết định trong vụ Hague v. Ủy ban cho Tổ chức Công nghiệp khẳng định quyền của những người cộng sản được cổ vũ cho chính nghĩa của họ.[44] Ngay cả những thành phần bảo thủ, như American Bar Association bắt đầu vận động cho tự do dân sự, mà bấy lâu được coi là lãnh vực của các tổ chức thiên tả. Đến năm 1940, ACLU đã đạt được nhiều mục tiêu hoạch định trong thập niên 1920, và nhiều chính sách của nó là luật pháp về đất đai.[44]

Bành trướng

Năm 1929, sau chiến thắng Scopes và Dennett, Baldwin nhận ra có hỗ trợ lớn, chưa được khai thác cho các quyền tự do dân sự ở Hoa Kỳ.[40] Baldwin đề xuất một chương trình mở rộng cho ACLU, tập trung vào sự tàn bạo của cảnh sát, quyền người Mỹ bản địa, quyền Mỹ gốc Phi, kiểm duyệt trong nghệ thuật, và các quyền tự do dân sự quốc tế.[40] Hội đồng quản trị phê duyệt kế hoạch mở rộng Baldwin, ngoại trừ các nỗ lực quốc tế.

ACLU đóng một vai trò quan trọng trong việc thông qua Đạo luật 1932 Norris-La Guardia, một luật liên bang nào bị cấm doanh nhân ngăn ngừa nhân viên gia nhập công đoàn, và ngưng lại thông lệ cho đình công, công đoàn và các hoạt động tổ chức lao động là bất hợp pháp.[45] ACLU cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc khởi xướng một nỗ lực toàn quốc để giảm hành vi sai trái (buộc khai gian) trong sở cảnh sát, bằng việc xuất bản báo cáo các hành động vô luật lệ trong khi thi hành luật pháp vào năm 1931 dưới sự bảo trợ của Ủy ban Wickersham của Herbert Hoover [45] Năm 1934, ACLU đã vận động cho việc thông qua Đạo Luật Tái tổ chức Người Da Đỏ, nhằm phục hồi một số quyền tự chủ cho các bộ lạc người Mỹ bản địa, và thành lập những hình phạt cho việc bắt cóc trẻ em người Mỹ bản địa.[45]

Mặc dù ACLU làm theo NAACP trong tranh cãi việc quảng bá tự do dân sự cho người Mỹ gốc Phi, ACLU đã tham gia vào các nỗ lực giáo dục, và xuất bản Tư pháp Đen năm 1931, một bài tường thuật ghi lại phân biệt chủng tộc của các cơ quan ở khắp miền Nam, bao gồm thiếu quyền biểu quyết, sự phân biệt chủng tộc, và phân biệt đối xử trong hệ thống tư pháp.[46] Được tài trợ bởi Quỹ Garland, ACLU cũng tham gia trong việc hình thành bài tường thuật Margold gây nhiều ảnh hưởng, vạch ra một chiến lược để đấu tranh cho quyền công dân cho người da đen.[47][48] Kế hoạch của ACLU là để chứng minh, các chính sách "riêng biệt nhưng bình đẳng" quản lý việc phân biệt đối xử miền Nam là bất hợp pháp vì người da đen không bao giờ, trên thực tế, được đối xử công bằng.[47]

Thời kỳ suy thoái và New Deal

Năm 1932 - mười hai năm sau khi ACLU được thành lập - nó đã đạt được thành công đáng kể; Tòa án tối cao đã chấp nhận các nguyên tắc tự do ngôn luận được hỗ trợ bởi ACLU, và công chúng đã hỗ trợ nhiều hơn về các quyền dân sự nói chung.[49] Nhưng cuộc Đại khủng hoảng đưa tới các cuộc tấn công mới vào các quyền tự do dân sự; năm 1930 có một sự gia tăng lớn về số lượng các vụ truy tố về tự do ngôn luận, tăng gấp đôi số lượng các vụ xử tử mà không thông qua tòa án, và tất cả các cuộc họp của những người thất nghiệp bị cấm ở Philadelphia.[50]

Chính quyền của Franklin D. Roosevelt đề xuất Chính sách New Deal nhằm đối phó với cuộc suy thoái. Lãnh đạo ACLU có các ý kiến ​​trái chiều về New Deal, vì nhiều người cảm thấy rằng nó đại diện cho một sự gia tăng trong can thiệp chính phủ vào công việc cá nhân, và vì Cục Phục hồi Quốc gia đình chỉ đạo luật chống độc quyền.[51] Roosevelt bản thân không quan tâm về các quyền dân sự, nhưng đã bổ nhiệm nhiều người ủng hộ tự do dân sự vào các vị trí chủ chốt, trong đó có Bộ trưởng Nội vụ Harold Ickes, một thành viên của ACLU.[51][52]

Các chính sách kinh tế của các nhà lãnh đạo New Deal thường phù hợp với mục tiêu của ACLU, nhưng mục tiêu xã hội thì không.[52] Đặc biệt, phim ảnh hứng chịu một loạt những pháp lệnh địa phương cấm chiếu, vì bị coi là vô đạo đức hoặc khiêu dâm.[53] Ngay cả những bộ phim y tế công cộng miêu tả phụ nữ mang thai và sinh con đã bị cấm; ví dụ như vấn đề tạp chí Life phát hành ngày 11 tháng 4 năm 1938, trong đó bao gồm hình ảnh của quá trình sinh nở. ACLU đã chiến đấu chống lại những lệnh cấm này, nhưng không thắng được.[54]

Giáo hội Công giáo càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng chính trị trong những năm 1930, và sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy kiểm duyệt phim ảnh, và ngăn cản công bố thông tin kiểm soát sinh đẻ. Cuộc xung đột này giữa ACLU và Giáo hội Công giáo dẫn đến sự từ chức của linh mục Công giáo cuối cùng từ giới lãnh đạo ACLU vào năm 1934; phía Công giáo từ đó không có một linh mục đại diện tại tổ chức này cho đến thập niên 1970.[55]

ACLU không có quan điểm chính thức về kế hoạch cải tổ tòa án 1937 (court-packing plan) của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, trong đó tổng thống có quyền đề cử thêm thẩm phán vào Tòa án tối cao, trừ khi Tòa án tối cao đảo ngược tiến trình của nó và bắt đầu phê duyệt luật New Deal.[56] Tòa án tối cao trả lời bằng cách thay đổi lớn trong chính sách, và không còn áp dụng giới hạn hiến pháp nghiêm ngặt cho các chương trình của chính phủ, và cũng bắt đầu có một vai trò tích cực hơn trong việc bảo vệ các quyền tự do dân sự.[56]

Quyết định đầu tiên đánh dấu hướng đi mới của tòa án là vụ "De Jonge v. Oregon", trong đó một người tổ chức công đoàn cộng sản bị bắt vì kêu gọi họp mặt để thảo luận về tổ chức công đoàn.[57] Luật sư của ACLU Osmond Fraenkel, làm việc với tổ chức Lao động quốc tế, để bảo vệ De Jonge vào năm 1937, và đã giành được thắng lợi lớn khi Tòa án tối cao phán quyết rằng "Tập họp yên bình cho một cuộc thảo luận hợp pháp không thể buộc đó là một tội phạm." [58] Vụ De Jonge đánh dấu sự bắt đầu của một thời đại kéo dài hàng chục năm, trong đó những người được bổ nhiệm bởi Roosevelt (dẫn đầu bởi Hugo Black, William O. Douglas, và Frank Murphy) thành lập một cơ quan luật pháp tự do dân sự.[57] Năm 1938, thẩm phán Harlan F. Stone viết "chú thích bốn" nổi tiếng về vụ "Hoa Kỳ v Công ty Sản phẩm Carolene", trong đó ông cho rằng pháp luật nhà nước gây cản trở cho tự do dân sự cần phải có biện minh thuyết phục.[59]

Thượng nghị sĩ Robert F. Wagner đề xuất Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia vào năm 1935, trong đó trao quyền công nhân thành lập công đoàn. Trớ trêu thay, ACLU, sau 15 năm đấu tranh cho quyền lợi công nhân, ban đầu phản đối dự luật này (sau này nó không giải thích quan điểm mình về dự luật) vì một số lãnh đạo ACLU sợ đạo luật sẽ trao cho chính phủ quá nhiều quyền lực.[60] Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia mới được thành lập (NLRB) đặt ra một tình thế khó xử cho ACLU, vì năm 1937 nó đã ban hành một lệnh cho Henry Ford, cấm Ford phổ biến văn học chống công đoàn.[61] Một phần của các nhà lãnh đạo ACLU thường xuyên về phía giới lao động, và nhóm đó ủng hộ hành động của NLRB.[61] Nhưng một phần khác của ACLU hỗ trợ quyền tự do ngôn luận của Ford.[61] Lãnh tụ ACLU Arthur Hays Garfield đề xuất một thỏa hiệp (hỗ trợ công đoàn người lao động xe hơi, nhưng cũng ủng hộ quyền của Ford để bày tỏ ý kiến cá nhân), nhưng sự phân ly nhấn mạnh sự phân chia sâu sắc hơn mà sẽ trở nên nổi bật hơn trong những năm tới.[61]

Việc hỗ trợ NLRB của ACLU là một sự phát triển lớn cho ACLU, vì nó đánh dấu lần đầu tiên ACLU chấp nhận rằng, một cơ quan chính phủ có thể có trách nhiệm bảo vệ các quyền tự do dân sự.[62] Cho đến năm 1937, ACLU cảm thấy rằng các quyền dân sự được duy trì tốt nhất bởi các công dân và các tổ chức tư nhân.[62]

Một số phe phái trong ACLU đề ra phương hướng mới cho tổ chức. Vào cuối những năm 1930, một số chi nhánh địa phương đề xuất chuyển đổi trọng tâm của họ từ các hành động chống án vì quyền tự do dân sự, để trở thành một hội trợ giúp pháp lý, tập trung vào các văn phòng mặt tiền trong các khu phố có thu nhập thấp. Các giám đốc ACLU từ chối đề nghị đó.[63] Các thành viên ACLU khác muốn ACLU tập trung vào đấu trường chính trị, và họ sẵn sàng thỏa hiệp lý tưởng của họ để thỏa hiệp với các chính trị gia. Sáng kiến này cũng đã bị từ chối bởi các lãnh đạo ACLU.[63]

Nhân chứng Jehovah

Việc hỗ trợ các bị cáo của ACLU với những quan điểm không được quần chúng yêu chuộng, đôi khi cực đoan, đã sinh ra nhiều vụ án bước ngoặt và thành lập các quyền tự do dân sự mới.[59] Một trong những bị cáo là các nhân chứng Jehovah, những người có dính líu tới một số lượng lớn các vụ án của Tòa án Tối cao.[59][64] Các trường hợp được ACLU hỗ trợ bao gồm Lovell v. City of Griffin (không tuân theo một sắc lệnh thành phố yêu cầu xin giấy phép trước khi có thể phân phối "văn học của bất kỳ loại nào.");. Martin v Struthers (mà không tuân theo một lệnh cấm vận động từng nhà); và Cantwell v. Connecticut (đảo ngược một kết án một nhân chứng Giêhôva đã đọc bài phát biểu công kích tại một góc phố).[65]

Các vụ án quan trọng nhất liên quan đến quy chế yêu cầu chào cờ.[65] Nhân chứng Giêhôva cảm thấy chào cờ là trái với niềm tin tôn giáo của họ. Hai đứa trẻ bị kết án năm 1938 vì không chào cờ.[65] ACLU hỗ trợ kháng cáo lên Tòa án tối cao, nhưng tòa án khẳng định bản án, vào năm 1940.[66] Nhưng ba năm sau, trong vụ án Hội đồng Giáo dục Nhà nước Tây Virginia v. Barnette, tòa án tối cao lại thay đổi quan điểm của mình và đã viết "Nếu có bất kỳ ngôi sao cố định trong chòm sao hiến pháp của chúng ta, đó là không nhân viên nhà nước, chức vụ cao hay nhỏ, có thể quy định những gì được xem là chính thống trong chính trị, dân tộc, tôn giáo, hoặc các vấn đề khác về quan điểm hay buộc công dân thú nhận bằng lời nói hoặc hành động đức tin của họ trong đó ". Để nhấn mạnh quyết định của mình, Tòa án tối cao công bố nó trong "ngày Cờ" (Flag Day).[66][67]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Liên_đoàn_Tự_do_Dân_sự_Mỹ http://library.indstate.edu/about/units/rbsc/debs/... http://findingaids.princeton.edu/getEad?eadid=MC00... http://findingaids.princeton.edu/getEad?eadid=MC00... http://www.law.umkc.edu/faculty/projects/ftrials/s... http://www.law.umkc.edu/faculty/projects/ftrials/s... http://digital.lib.washington.edu/findingaids/view... http://reuther.wayne.edu/node/2180 http://reuther.wayne.edu/node/2181 http://vault.fbi.gov/ACLU http://ncrp.org/files/rp-articles/RP-Winter-2005-M...